YouMed

Những điều mẹ cần lưu ý về bất thường mọc răng và phát triển răng ở trẻ

Bác sĩ Trương Mỹ Linh
Tác giả: Bác sĩ Trương Mỹ Linh
Chuyên khoa: Răng - Hàm - Mặt

Như chúng ta đã biết mọc răng là một quá trình phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Quá trình mọc răng bắt đầu từ trong giai đoạn phôi thai, cho đến khi trẻ sinh ra và trưởng thành. Không có một cơ quan nào khác trong cơ thể người lại cần một thời gian dài như vậy để đạt đến hình thể sau cùng như bộ răng. Bên cạnh đó, quá trình này cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố dẫn đến các bất thường mọc răng và phát triển răng ở trẻ. Sau đây hay cùng YouMed tìm hiểu về những bất thường này nhé!

1/ Tổng quát về quá trình mọc răng

Mỗi người chúng ta trong đời sống đều trải qua 2 bộ răng, là răng sữa và răng vĩnh viễn. Răng sữa bao gồm 20 răng và mọc khi trẻ được khoảng 6 tháng tuổi. Hàm răng vĩnh viễn bao gồm 32 chiếc răng và bắt đầu mọc khi trẻ 6 tuổi. Quá trình mọc răng của trẻ thường theo một trình tự cụ thể và thường là đối xứng theo cung răng. Răng của mỗi bên sẽ mọc trong vòng 6 tháng so với bên kia. Thời gian mọc răng có thể sai lệch so với thông thường. Các yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng đến thời gian mọc bao gồm:  dân tộc, giới tính, môi trường cũng như các yếu tố cá nhân.

  • Di truyền (khoảng 78%).

Gia đình: có sự liên hệ giữa yếu tố gia đình và sự mọc răng, dựa trên các nghiên cứu trẻ song sinh.

Chủng tộc: người da đen bị ảnh hưởng nhiều hơn người da trắng.

Giới tính: phụ nữ thay đổi nhiều hơn nam giới.

  • Môi trường

Trẻ sinh sớm hoặc nhẹ cân khi sinh: chậm mọc răng.

Dinh dưỡng: có rất ít hoặc không có ảnh hưởng.

  • Toàn thân.

Nội tiết tố:

Có mối liên hệ chặt chẽ với thiểu năng tuyến yên và thiểu năng tuyến giáp.

Ít liên quan với các kích thích tố tăng trưởng khác.

2/ Một số bất thường trong quá trình mọc răng và phát triển răng

Hầu hết mọi người sẽ có một lần bất thường mọc răng. Tuy nhiên, một số có thể gặp phải các vấn đề như:

2.1/ Mọc răng chậm

Mọc chậm là khi răng mọc muộn hơn đáng kể so với thời gian mọc của hầu hết mọi người. Nó cũng có thể được coi là khi có sự gián đoạn trong quá trình mọc răng. Một số trẻ sinh non, nhẹ cân cũng như trẻ suy dinh dưỡng có thể gặp hiện tượng chậm mọc răng. Một số trẻ em mắc các bệnh lý như Hội chứng Down cũng có thể mắc chứng này. Các tình trạng như khi có răng thừa, không đủ khoảng trống trong cung răng và nướu xơ cứng bất thường có thể gây ra tình trạng chậm phát triển cục bộ liên quan đến một vài răng.

2.2/ Mọc răng sớm

Một số trẻ sơ sinh có những chiếc răng mọc sớm lúc mới sinh hoặc sau sinh vài tuần, được gọi là ‘răng sơ sinh’. Đây có thể là răng sữa mọc sớm hoặc răng dư. Vị trí thường xuất hiện là các răng trước hàm dưới. Thường thì các răng này được nhổ bỏ nếu gây trở ngại cho trẻ khi bú, nguy hiểm khi rơi vào đường hô hấp; hoặc gây đau cho mẹ khi cho bú.

Những bệnh nhân có tình trạng bệnh lý như cường giáp và dậy thì sớm cũng có thể có biểu hiện mọc răng sớm. Thường thì răng hàm dưoi mọc trước răng hàm trên, phái nữ mọc sớm hơn phái nam, trẻ gầy mọc sớm hơn trẻ mập. Trường hợp răng mọc sớm hoặc chậm vài tháng so với thời gian mọc răng được xem là bình thường. Thời gian mọc răng đặc biệt không quan trọng, trừ khi có sự thay dổi nhiều so với tuổi trung bình mọc răng. Trong khi đó, thứ tự mọc răng rất quan trọng vì giúp xác định vị trí răng trên cung hàm.

bất thường mọc răng: Mọc răng sớm

2.3/ Thiếu răng

Thiếu răng hoặc không răng xảy ra khi có sự thất bại trong quá trình phát triển của răng. Thiếu răng có thể từ chỉ một đến nhiều răng. Không răng là thiếu hoàn toàn sự phát triển của răng ở cả 2 bộ răng.  Thiếu răng có thể xảy ra ở những bệnh nhân khỏe mạnh hoặc có thể liên quan đến những tình trạng như sứt môi.

2.4/ Răng dư

Một số trẻ có thể có thêm một hoặc một vài răng. Chúng có thể xảy ra ở người bình thường hoặc có thể liên quan đến những bệnh nhân mắc các bệnh lý như: Loạn sản đòn-sọ, sứt môi hàm ếch, hội chứng Down. Tỉ lệ răng dư cao nhất là ở vùng răng cửa hàm trên và vùng răng cối. Tiếp theo là răng cối nhỏ thứ hai hàm dưới. Mặc dù răng dư xảy ra ở cả hai bộ răng nhưng rất hiếm ở bộ răng sữa.

Răng dư nằm giữa hai răng cửa giữa hàm trên gọi là răng dư kẽ giữa. Phần lớn các răng này mọc ngầm và không thấy trên hàm. Răng dư kẽ giữa, hoặc bất kỳ răng dư nào, đều có thể làm chậm mọc, mọc sai chỗ hoặc ngót chân các răng cửa đang hiện diện. Răng dư kẽ giữa thường nằm phía khẩu cái đối với răng cửa và mọc ngược.

Các răng dư có hình dạng bình thường gọi là răng thêm. Thường thấy ở vùng răng cửa cả hai hàm. Ở hàm trên, răng thường có hình dáng tương tự như răng cứa bên và nằm phía gần hoặc phía xa đối với răng này. Thỉnh thoảng có thêm căng cối nhỏ thứ ba. Các răng dư thường thiểu sản và mọc sai chỗ. Thường có hình chóp nón hoặc củ.

Nếu đơn giản, nên nhổ không chần chừ. Tuy nhiên, nếu răng dư không gây nguy hai, và không cản trở khớp cắn, nên giữ lại bởi vì nhổ đi có thể gây nhiều tổn hại hơn là để các răng dư này nằm yên ở vị trí của chúng.

2.5/ Cấu trúc răng bất thường

Răng dị dạng có thể ảnh hưởng đến việc mọc răng. Trong trường hợp bất thường nặng, răng có thể không mọc lên được.

  • Răng sinh đôi :

Là kết quả của sự tách ra một phần, với hình dạng của hai thân răng cùng một ống tủy chân răng. Thỉnh thoảng tách ra hoàn toàn thành hai răng giống hệt nhau. Bệnh căn có thể do chấn thương, song nguyên nhân thật sự vẫn chưa rõ. Hiếm gặp, nếu có thường ở vùng răng cửa sữa hàm trên. Số lượng răng trên cung hàm vẫn đủ.

  • Răng dung hợp:

Được định nghĩa là sự dính hai mầm răng đang phát triển, hình thành một cấu trúc răng lớn. Quá trình hợp nhất liên quan suốt chiều dài hoặc có thể chỉ liên quan một phần chân răng. Ống tủy có thể riêng biệt hoặc chung. Nguyên nhân chưa rõ, có thể do chấn thương. Thường gặp ở hệ răng sữa. Số răng còn lại thiếu một răng. Tuy nhiên, không thế phân biệt sự dung hợp một răng bình thường và một răng dư với răng sinh đôi, khi đó số răng còn lại vẫn đủ.

Phân biệt răng sinh đôi và răng dung hợp
Phân biệt răng sinh đôi và răng dung hợp
  • Răng đồng triển:

Là một hình thức dung hợp hai răng cạnh nhau ở phần xê măng khi răng đã hình thành. Điều này có thể xảy ra trước hoặc sau khi mọc, liên quan đến chấn thương hoặc răng chen chúc. Răng đồng triển thường thấy nhất là răng cối lớn hàm trên thứ 2 và thứ 3. Bất thường này không ảnh hưởng gì, trừ khi một trong hai răng phải nhổ. Khi đó, cần tiểu phẫu tách hai răng ra để giữ răng còn lại.

  • Răng trong răng/ Răng lộn trong:

Răng lộn trong là một bất thường trong quá trình phát triển răng khi lớp biểu mô men tăng sinh bị gấp vào trong nhú trung mô. Phần biểu mô này vẫn hoạt động sinh men, cảm ứng trung mô sinh ngà. Sau cùng hình thành một khổi giống răng ở bên trong răng, thông ra môi trường miệng bằng một lỗ phía trong răng.

Răng trong răng là một bất thường ít gặp, thể hiện bằng một hố lưỡi sâu quá mức, có khi đển tận chóp răng. Thường gặp nhất ở răng cửa bên vĩnh viễn hàm trên, dù cũng có thấy ở những rằng trước khác. Nguyên nhân chưa rõ. Răng trong răng thuận lợi cho sự tích tụ mảng bám, vi khuẩn nên dễ sâu răng. Lớp men lót bên trong không hòan tòan, có thể có thông nối giữa hố trung tâm và tủy. Dẫn đến hoại tử tủy rất sớm, chỉ thời gian ngắn sau khi mọc thậm chí trước khi răng đóng chóp. Tuy nhiên, điều trị tủy cho răng trong răng rất phức tạp. Do đó, cần kết hợp khám lâm sảng và chup phim chuẩn đoán sóm để phòng ngừa.

  • Nhô răng

Nhô răng là một bất thường phát triển, được định nghĩa là một núm, một phần lồi ra từ bề mặt răng. Thường gặp ở răng cối nhỏ như một múi dư giữa mặt nhai (núm phụ mặt nhai), hoặc ở cingulum răng trước (múi Talon/ Talon cusp). Người ta cho rằng do sự nhô ra của một vùng biêu mô men trong và một phần trung mô bên dưới vào cơ quan răng trong giai đoạn sớm của quá trình phát triển răng. Tuy nhiên, cơ chế chính xác chưa biết rõ.

>> Răng mọc lệch ở trẻ cũng là một dấu hiệu được nhiều cha mẹ quan tâm. Xem thêm trong bài viết: Răng mọc lệch ở trẻ: Dấu hiệu nhận biết & Phòng ngừa

2.6/ Bất thường vị trí

2.6.1. Răng thưa, hở kẽ

Hiện tượng răng thua thường gặp nhất là ở vùng răng trước của hệ răng sữa. Răng thưa thường do cung hàm tương đối rộng so với kích thước răng nên dư khỏang, các răng mọc thưa ra. Những trường hợp không dư khoảng nhưng răng vẫn thưa như mất răng sớm, thiểu răng, răng ngầm, thắng môi bám thấp.. Ngoài ra, có trường hợp răng mọc lên bình thường nhưng theo thời gian vùng răng trước thưa dần, đưa ra trước do tật đẩy lưỡi. Hoặc khi bị bệnh nha chu, tiêu xương nhiều dễ bị di chuyển do lực từ các mô lần cận, răng bị thưa ra.

2.6.2. Răng chen chúc

Khi cung hàm nhỏ tương đối so với kích thước các răng, do thiếu khoảng nên các răng mọc chen chúc, nghiêng lệch. Thường các răng có thứ tự mọc sau cùng bị nghiêng lệch do bắt đầu mọc khi các răng khác đã mọc đủ chỗ trên cung hàm. Do đó, răng nanh hàm trên thường lệch ngoài hoặc xô lệch răng cửa bên về khẩu cái; răng cối nhỏ thứ 2 hàm dưới thường nghiêng về phía hơn. Ngoài ra, vùng răng trước hàm dưới cũng thường bị chen chúc do là răng một chân, nhỏ nên dễ bị xoay, xô lệch khi thiếu chỗ. Răng chen chúc thường gặp ở hệ răng vĩnh viễn hơn. Trường hợp vùng răng trước hàm dưới vĩnh viễn chen chúc, đa số là răng cửa giữa xoay với cạnh gần quay về phía-lưỡi.

Các răng sữa nếu chen chúc thì thường chỉ là chen chúc nhẹ ở vùng răng của hàm dưới. Khi đó, răng cửa bên thường xoay (86% trường hợp chen chúc răng sữa) với cạnh xa quay về phía lưỡi. Tuy nhiên nếu có chen chúc ở hệ răng sữa là dấu hiệu dự báo thiếu khỏang trầm trọng ở hệ răng vĩnh viễn.

2.6.3. Răng xoay

Răng có thể bị xoay quanh trục nhiều hay ít do những tác động xảy ra khi mầm răng đang hình thành, răng đang mọc hoặc khi đã mọc trên cung hàm. Nếu chấn thương tác động lên mầm răng, răng mới mọc lên đã xoay. Đôi khi răng có thể tự xoay trở lại đúng vị trí do tác động của môi, má, lưỡi. Răng một chân dễ bị xoay hơn răng nhiều chân. Răng đã mọc trên cung hàm có thể bị xoay khi mất răng kế cận. Có thể gặp những trườmg hợp răng cối nhỏ thứ 2 xoay ngang hòan toàn do mất răng cối lớn thứ 1 sớm. Một số trường hợp răng khôn hàm dưới mọc khi cung răng đã ổn định, đẩy các răng về phía gần làm cho các răng cửa dưới xoay nhẹ, lạc chỗ.

2.6.4. Răng sai chỗ, lac chỗ

Răng sai chỗ là trường hợp răng xuất hiện ở xa vị trí bình thường. Những trường hợp răng mọc ở khẩu cái, ngược lên hốc mũi, nhô ra da, răng ở khuyết sygma, cảnh đứng xương hàm… Thường sai chỗ nhất là răng nanh hàm trên

2.6.5. Răng dời chỗ, răng chuyển vị

Răng chuyển vị là thuật ngữ chi trường hợp các răng vĩnh viễn kể nhau đổi vị trí cho nhau. Ti lệ răng chuyển vị là 0,38%. Răng chuyển vị thường xảy ra ở hàm trên, và thường kết hợp với những bất thường khác như thiếu răng, còn răng sữa, răng của bên hình chêm.

Nguyên nhân của hiện tượng chuyển vị này vẫn chưa được lý giải rõ ràng. Nguyên nhân có thể là do: chấn thương răng, còn răng sữa, chuyển vị trên đường mọc răng, thay đổi vị trí mầm răng.

Bất thường mọc răng: Chuyển vị răng nanh và răng cối nhỏ
Chuyển vị răng nanh và răng cối nhỏ

2.6.6. Răng ngầm

Răng ngầm bao gồm các răng ngừng mọc do cản trở vật lý trên lộ trình mọc, mọc nghiêng lệch hoặc cứng khớp. Các răng ngầm vẫn còn lại trong xương hàm sau thời gian mọc thông thường. Bao răng của những răng này không liên thông với môi trường miệng. Những răng thường ngầm nhất là răng khôn hàm dưới, răng khôn hàm trên và răng nanh trên, tiếp đến là răng cối nhỏ và răng dư. Nguyên nhân gây ngầm là do thiếu chỗ mọc, góc độ của răng, có cản trở trên đường mọc răng,  khóang hóa chậm.

Trên đây là một số bất thường mọc răng và phát triển răng mà chúng ta cần lưu ý. Nhận biết và hiểu được nguyên nhân sẽ giúp chúng ta có cách phòng ngừa và khắc phục những bất thường này, giúp trẻ có hàm răng khỏe đẹp hơn.

Đặt khám tiện lợi cùng YouMed

+25 Bệnh viện
+700 Bác sĩ
+89 Phòng khám
Đặt khám không chờ đợi

Đặt khám
không chờ đợi

Nhắn tin với bác sĩ

Nhắn tin
với bác sĩ

Gọi video với bác sĩ

Gọi video
với bác sĩ

Mua sản phẩm y tế giá tốt

Mua sản phẩm
y tế giá tốt

Lưu trữ hồ sơ y tế

Lưu trữ
hồ sơ y tế

Đọc tin y tế chính thống

Đọc tin y tế
chính thống

Tải ứng dụng YouMed

Nguồn tham khảo / Source

Trang tin y tế YouMed chỉ sử dụng các nguồn tham khảo có độ uy tín cao, các tổ chức y dược, học thuật chính thống, tài liệu từ các cơ quan chính phủ để hỗ trợ các thông tin trong bài viết của chúng tôi. Tìm hiểu về Quy trình biên tập để hiểu rõ hơn cách chúng tôi đảm bảo nội dung luôn chính xác, minh bạch và tin cậy.

  1. Bộ môn Chữa răng nội nha. Giáo trình bệnh hoc răng, Các bất thường răng. Nhà xuất bản y học, tr132-158

  2. Ts.Bs Trần Thúy Nga. Nha khoa trẻ em", Các bất thường trong sự phát triển răng. Nhà xuất bản y học, 60-95

Chia sẻ thông tin hữu ích này cho mọi người