Ngà răng: Thành phần quan trọng của răng
Nội dung bài viết
Hầu như chúng ta nhắc nhiều đến vai trò của men và tủy răng. Vậy ngà liệu có quan trọng không? Ngà răng là một cấu trúc cũng quan trọng không kém hai thành phần trên. Ngà răng đóng góp nhiều cho việc tạo màu sắc, nâng đỡ cấu trúc răng, cũng như góp phần vào dẫn truyền các kích thích và tạo lớp bảo vệ cho tủy. Sau đây, hãy cùng YouMed tìm hiểu về cấu trúc cũng như chức năng của ngà đối với răng.
Sự hình thành và phát triển của ngà răng
Sự hình thành của ngà bắt đầu trước khi hình thành men răng và được khởi đầu bởi các nguyên bào ngà trong tủy. Ngà có nguồn gốc từ nhú răng của mầm răng. Mầm răng là cấu trúc nguyên thủy mà từ đó một chiếc răng được hình thành. Bao gồm cơ quan men răng, nhú răng và túi nha chu. Sau khi tiền ngà tăng trưởng và phát triển thành ngà trưởng thành, các nguyên bào ngà vẫn còn trong tủy răng. Chúng tập trung dọc theo thành ngoài và găn vào các ống ngà nhỏ trong ngà răng. Ngà tiếp tục hình thành trong suốt cuộc đời và có thể được tạo ra để đáp ứng với các kích thích, chẳng hạn như sâu răng hoặc mòn răng.
Thành phần cấu tạo và đặc tính của ngà răng
Thành phần cấu tạo của ngà
Gồm: Khoáng chất hydroxyapatite chiếm khoảng 70% ngà răng. Trong khi 20% là chất hữu cơ và 10% nước
- Thành phần vô cơ: Chủ yếu dưới dạng tinh thể hydroxyapatite. Ca và P chiếm tỷ lệ cao với tỷ lệ Ca/P= 1/ 2,3.
- Thành phần hữu cơ: trên 90% là collagen type 1, còn lại là không collagen. Trong đó thành phần hữu cơ cao ở ngà vỏ, thấp ở ngà quanh ống.
Xem thêm: Mẻ răng: Nguyên nhân và cách khắc phục.
Các đặc tính của ngà răng
Các đặc tính của ngà được quyết định bởi cấu trúc.
- Về độ cứng: ngà cứng hơn xê măng và răng. Nhưng không cứng bằng xương.
- Màu của ngà: có thể dao động từ xám đến đen, nhưng thường có màu vàng nhạt. Trong quá trình làm trắng răng, lớp ngà răng tiếp xúc với các chất tẩy trắng như hydro peroxide hoặc carbamide peroxide. Sự sáng lên của ngà từ việc sử dụng chất tẩy trắng giúp răng trắng hơn.
- Ngà xốp, có tính thấm, có độ đàn hồi cao
Cấu trúc của ngà răng
Ngà là một mô khoáng hóa bao gồm các ống ngà nhỏ. Nó là lớp thứ hai của cấu trúc răng và được bao phủ bởi men răng ở phần thân và bởi xê măng ở chân răng. Bên dưới lớp ngà là mô tủy. Ngà chiếm phần lớn cấu trúc của răng.
Ống ngà
Trong ngà có các kênh siêu nhỏ gọi là ống ngà. Chúng được sắp xếp theo mô hình xuyên tâm xung quanh tủy, kéo dài từ tủy về phía men răng bên ngoài ở thân răng và về phía xi măng ở chân răng. Các ống ngà chứa các đuôi của nguyên bào ngà và chất lỏng. Điều này mang lại cho ngà răng một mức độ thẩm thấu cao, làm tăng cảm giác đau đớn và đẩy nhanh quá trình sâu răng. Các ống ngà có đường đi hình chữ S ở thân răng, khá thẳng ở ngà chân răng. Đường kính và mật độ của ống ngà tương ứng với đường đi, đường kính và mật độ của các đuôi nguyên bào ngà. Càng gần tủy răng, các ống ngà càng sát lại.
Xem thêm: Phòng bệnh răng miệng để có sức khỏe toàn diện
Từ bên ngoài vào trong, cấu trúc mô học của ngà răng gồm các lớp:
Ngà vỏ: Độ dày khoảng 10 – 20μm, chứa khuôn collagen dạng sợi khoáng hóa. Mật độ khoáng hóa thấp hơn so với lớp ngà quanh tủy.
Tiếp đó, là ngà nguyên phát, gồm các dạng ngà:
Quanh tủy
Là khối ngà nằm giữa ngà vỏ và khoang tủy. Đây là sản phẩm đặc biệt của quá trình phối hợp chức năng của nguyên bào ngà. Không có các sợi alpha và thỉnh thoảng mới có các phân nhánh của nguyên bào ngà.
Quanh ống
Lớp này bao phủ thành ống ngà. Chúng rất dày đặc, khoáng hóa đồng nhất và cản quang. Các tinh thể hydroapatite của ngà quanh ống có dạng lăng trụ lục giác. Độ dày của ngà quanh ống phụ thuộc vào vị trí của phần ống ngà tương ứng nằm trong lớp ngà răng và phụ thuộc và tuổi của cá thể đó.
Gian ống
Là phần ngà nằm giữa các ống ngà. Ngà gian ống có mật độ, mức độ khoáng hóa thấp hơn và ít cản quang hơn so với ngà quanh ống. Chứa lượng lớn sợi collagen, cấu trúc đan kết, nằm vuông góc với hướng các ống ngà.
-
Tiền ngà.
-
Ngà thứ phát.
-
Nguyên bào ngà (trong tủy).
Phân loại
Có ba loại ngà răng: ngà nguyên phát, thứ phát và ngà thứ ba (ngà phản ứng và ngà xơ hóa).
Ngà thứ phát là lớp ngà được sản xuất sau khi chân răng được hình thành hoàn toàn. Còn ngà thứ ba được tạo ra để đáp ứng với một kích thích, chẳng hạn như sâu răng hoặc mòn răng.
Xem thêm: 21 vấn đề và bệnh răng miệng thường gặp
Ngà nguyên phát
Nằm giữa men răng và buồng tủy . Lớp ngoài gần nhất với men răng được gọi là ngà vỏ. Lớp này là phần còn lại duy nhất của ngà nguyên phát. Ngà vỏ được hình thành bởi các nguyên bào ngà tạo thành một lớp nhất quán rộng 15 – 20 micromet . Không giống như ngà nguyên phát, ngà vỏ thiếu phosphoryl hóa, có các sợi collagen đóng gói lỏng lẻo và ít khoáng hóa.
Bên dưới nó là ngà quanh tủy, ngà răng khoáng hóa hơn, chiếm phần lớn lớp ngà và được tiết ra sau lớp ngà vỏ bởi các nguyên bào ngà. Ngà quanh tủy được hình thành trước khi sự hình thành chân răng được hoàn thành.
Ngà mới được tiết ra không được khoáng hóa và được gọi là tiền ngà. Nó dễ dàng được xác định trong các phần nhuộm hematoxylin và eosin vì ít bắt màu hơn so với ngà răng. Độ dày tiền ngà thường 10 – 47μm và nằm trong vùng trong cùng của ngà. Nó không được khử khoáng và bao gồm collagen, glycoprotein và proteoglycan.
Ngà thứ phát
Ngà thứ phát được hình thành sau khi sự hình thành chân răng hoàn tất, bình thường sau khi răng đã mọc và tham gia chức năng. Nó phát triển chậm hơn nhiều so với ngà nguyên phát nhưng vẫn duy trì sự tăng trưởng.
Ngà thứ phát có cấu trúc tương tự ngà răng chính, mặc dù sự lắng đọng của nó không phải luôn luôn ở xung quanh buồng tủy. Chính sự phát triển của loại ngà này gây ra sự giảm kích thước của buồng tủy theo tuổi. Do đó việc sửa soạn răng ở người trẻ có nguy cơ lộ tủy cao hơn. Nếu điều này xảy ra, mô tủy sẽ được điều trị bằng các phương pháp khác. Ví dụ như: che tủy trực tiếp.
Ngà thứ ba (gồm ngà sửa chữa hay ngà xơ hóa)
Loại ngà này được hình thành như một phản ứng đối với kích thích bên ngoài như sâu răng và mòn răng. Nó gồm có hai loại:
- Ngà phản ứng: trong đó ngà răng được hình thành từ một nguyên bào ngà đã có từ trước.
- Ngà sửa chữa: trong đó các tế bào giống như nguyên bào ngà mới được hình thành từ một tế bào trung mô trong tủy khi các nguyên bào ngà ban đầu mất đi.
Loại ngà thứ ba chỉ được hình thành bởi nguyên bào ngà bị ảnh hưởng trực tiếp bởi một kích thích. Do đó, cấu trúc lớp ngà này phụ thuộc vào cường độ và thời gian của kích thích.
Ví dụ, nếu kích thích là một tổn thương nghiêm trọng, có sự phá hủy rộng rãi của ngà răng và tổn thương tủy, do sự khác biệt của các chất chuyển hóa và độc tố của vi khuẩn. Do đó, ngà thứ ba được lắng đọng nhanh chóng, với mô hình hình ống thưa thớt và không đều với một số thể vùi tế bào.
Tuy nhiên, nếu kích thích ít hoạt động hơn, ngà thứ ba sẽ được tạo nhanh hơn với kiểu hình ống đều đặn hơn và hầu như không có bất kỳ thể vùi tế bào nào. Tốc độ hình thành ngà răng thứ ba cũng thay đổi đáng kể giữa các loài linh trưởng.
Chức năng
Nhìn chung, ngà chứa ít khoáng chất và ít giòn hoặc dễ vỡ hơn men răng. Chức năng chính của nó là cung cấp hỗ trợ cho men răng. Nó cũng chịu trách nhiệm truyền các xung kích thích từ bề mặt men răng hoặc chân răng đến tủy răng.
Ngà răng dù là cấu trúc cứng chắc nhưng vẫn thua so với men răng. Ngà có vai trò hỗ trợ men răng trong việc gia tăng sự cứng chắc cho răng. Các kích thích ống ngà sẽ khiến tủy nhạy cảm gây đau. Việc bảo vệ cấu trúc ngà do đó cũng vô cùng quan trọng.
Nguồn tham khảo / Source
Trang tin y tế YouMed chỉ sử dụng các nguồn tham khảo có độ uy tín cao, các tổ chức y dược, học thuật chính thống, tài liệu từ các cơ quan chính phủ để hỗ trợ các thông tin trong bài viết của chúng tôi. Tìm hiểu về Quy trình biên tập để hiểu rõ hơn cách chúng tôi đảm bảo nội dung luôn chính xác, minh bạch và tin cậy.
-
What is Dentin / Dentine?https://www.news-medical.net/health/What-is-Dentin-Dentine.aspx
Ngày tham khảo: 21/07/2020
-
Dentin and the Layers of Your Teethhttps://www.verywellhealth.com/dentin-definition-of-dentin-1059420
Ngày tham khảo: 21/07/2020