Dị vật đường thở và cách xử trí an toàn và hiệu quả nhất
Nội dung bài viết
Dị vật đường thở là bệnh lý tai mũi họng thường gặp ở trẻ em (xác suất cao nhất từ 1-3 tuổi, nam nhiều hơn nữ). Nếu chẩn đoán và xử trí không kịp thời dễ gây tử vong. Trong bài viết này, hãy cùng YouMed tìm hiểu kỹ hơn về bệnh lý trên.
Các loại dị vật đường thở thường gặp
Theo thống kê ở trẻ em, các số liệu cho thấy:
- Tại Việt Nam, dị vật đường thở có nguồn gốc từ thức ăn (các loại hạt, xương cá) nhiều hơn là do các mảnh đồ chơi.
- Riêng ở nước ta: ở miền Bắc, dị vật đường thở có nguồn gốc từ thực vật (các hạt) ít hơn so với miền Nam và dị vật đường thở có nguồn gốc từ động vật (xương) nhiều hơn miền Nam.
Một số loại dị vật đặc biệt:
- Dị vật sống là một loài đỉa/vắt ở miền núi có thể sống hàng tháng, hàng năm tại đường thở trên và dưới. Đây là loại dị vật đường thở di động.
- Dị vật nhựa: đuôi bút bi rơi vào đường thở ở học sinh cấp 2.
- Một tai nạn trong ngành Y là khi uống thuốc, viên thuốc có thể mắc lại ở “cửa” đường thở, gây tử vong ngay lập tức.
Về vị trí thì dị vật có thể gặp ở các vị trí dọc theo đường hô hấp. Tuy nhiên khi gần ngã ba chỗ vào hai bên lá phổi. Dị vật có xu hướng mắc ở bên phải (hơn 2/3 các trường hợp).
Vậy làm sao để nhận biết có dị vật đường thở?
Một đứa trẻ nếu đang ăn hay ngậm trong miệng một vật gì đó. Đứa trẻ bỗng lên cơn ho sặc sụa, tím tái, vã mồ hôi, lên cơn khó thở,… Người lớn cần nghĩ đến trẻ bị mắc dị vật đường thở.
Các triệu chứng trên gọi là hội chứng xâm nhập. Đó là phản ứng của cơ thể để tìm cách tống dị vật ra ngoài. Tuy nhiên, tùy vào hình dạng, kích thước, vị trí dị vật cũng như trẻ được phát hiện bệnh sớm hay muộn mà có các biểu hiện khác nhau.
Với một số trẻ, xuất hiện khàn tiếng, mất tiếng, tức ngực, đau ngực, sốt (đến chậm từ ngày thứ hai trở đi). Thậm chí có thể làm người bệnh chết ngay, không kịp cấp cứu.
Dị vật đặc biệt:
- Trường hợp đặc biệt dị vật đường thở lâu ngày bị bỏ qua. Đây là loại dị vật đặc biệt hay gặp ở con nít. Người bệnh có hội chứng xâm nhập nhưng gia đình không thấy hoặc không được chẩn đoán.
- Những bệnh nhân được khám và nằm điều trị tại các khoa Hô hấp trẻ em hay người lớn, khoa Lao thường được chẩn đoán với các tên bệnh khác nhau: Viêm phế quản mạn tính, Hen, Lao phổi,..
- Ngoài ra cũng có trường hợp dị vật trơn tuột xuống đường thở chưa kịp ho hoặc ho tống ra ngoài ngay sau đó.
- Để chẩn đoán chính xác, bác sĩ cần chụp phim phổi hai tư thế thẳng, nghiêng của bệnh nhân. Sau cùng nội soi đường thở bằng ống cứng hay mềm có giá trị cực kỳ quan trọng xác định có dị vật hay không (có khi phải soi đi soi lại nhiều lần).
Khi gặp dị vật đường thở ta sẽ xử lý như thế nào?
Đối với các loại dị vật này, tốt nhất là phòng ngừa cũng như phát hiện sớm các trường hợp mắc dị vật.
Năm 1974, H. J. Heimlich tại Mỹ đã giới thiệu một thao tác đã cứu sống được nhiều bệnh nhân. Nhất là ở người già bị một loại dị vật rất nguy hiểm là miếng thịt rơi xuống họng bịt kín đường thở. Thao tác này được gọi là thao tác Heimlich. Tuy nhiên cách làm thủ thuật này không giống nhau khi độ tuổi khác nhau.
Các bước xử lý khi gặp dị vật đường thở
- Bước 1: Hô thật to người xung quanh gọi ngay 115.
- Bước 2: Lập tức cấp cứu không chần chừ (trường hợp có thân nhân hỏi để xác nhận cho phép cấp cứu).
- Bước 3: Trấn an, nói chậm rõ các việc nạn nhân cần làm, dùng chữ đơn giản.
- Bước 4: Đứng phía sau lưng người bệnh, quỳ một gối cho vừa tầm nếu đó là trẻ em. Một tay vòng qua trước ngực, bàn tay nắm một bên vai. Cho người bệnh cúi người xuống; tay kia dùng cườm tay vỗ lưng giữa hai xương bả vai 5 lần.
- Bước 5: Nếu dị vật vẫn chưa ra, cần làm 5 lần ép bụng. Dùng một tay xác định rốn. Bàn tay kia đặt giữa bụng và phía trên rốn với ngón cái chút xuống đặt vào rốn. Khi bàn tay nắm lại đã vào vị trí, đặt bàn tay kia lên nắm tay rồi đẩy ép bụng theo chiều lên 5 lần.
- Bước 6: Luân chuyển 5 vỗ lưng và 5 đẩy ép bụng cho tới khi vật tắc nghẽn ra ngoài hay tới khi người bệnh tự ho, tự thở được hoặc tới khi bất tỉnh. (Nếu người bệnh bất tỉnh thì cho nằm xuống, cẩn thận đầu).
- Sau đó đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế gần nhất.
Lưu ý
Nếu người bệnh vẫn còn thở được, nên đưa bệnh nhân vào viện nội soi để lấy dị vật. Tuyệt đối không làm các cử chỉ sau:
- Móc ngón tay vào miệng người bệnh.
- Dốc ngược người bệnh với 2 chân lên cao: nguy cơ làm tăng tình trạng nguy kịch.
- Dù người bệnh không khó thở nhưng trong quá trình di chuyển, người bệnh phải luôn ở trong tư thế an toàn. Ngồi có cố định để dị vật không di chuyển.
Những điều cần chú ý
Bệnh dị vật đường thở ở Việt Nam cũng như trên thế giới là bệnh lý Tai mũi họng thường gặp ở trẻ em và cả người lớn. Bệnh này dễ dẫn đến tử vong. Vì vậy, vấn đề phòng bệnh là hết sức cần thiết.
- Cần phổ biến sự nguy hiểm của dị vật đường thở.
- Nguyên nhân gây bệnh thường do các đồ chơi có kích thước nhỏ cũng như do thức ăn gây nên. Vì vậy cần quản lý chặt chẽ. Góp ý với nhà sản xuất đồ chơi, tránh các bộ phận nhỏ, dễ tháo rời, dễ gãy, rơi vào đường thở khi ngậm vào miệng.
- Hoa quả, trái cây: ba loại hạt gây dị vật nhiều nhất là: hạt lạc (đậu phộng), hạt dưa, hạt na (mãng cầu). Tuyệt đối không cho trẻ nhỏ ăn, ngậm các hạt trên.
- Riêng đối với hạt sa-pô-chê. Khi ăn nên cắt theo đường xích đạo, lấy hạt ra rồi mới cắt trái thành miếng. Không lẫn hạt để ăn.
- Nên cho trẻ nhỏ uống thuốc dạng siro, bột thơm.
- Bệnh này thường bị bỏ qua. Khoảng 20 – 30 % các trường hợp dị vật đường thở bị bỏ sót và chẩn đoán nhầm. Soi thanh, khí, phế quản là một chỉ định cần thiết để chẩn đoán và điều trị loại bệnh này.
Dị vật đường thở là bệnh nguy hiểm, cần được phát hiện và điều trị kịp thời cho trẻ. Hãy luôn chú ý tới việc ăn uống của trẻ để tránh tình huống đáng tiếc xảy ra.
Nguồn tham khảo / Source
Trang tin y tế YouMed chỉ sử dụng các nguồn tham khảo có độ uy tín cao, các tổ chức y dược, học thuật chính thống, tài liệu từ các cơ quan chính phủ để hỗ trợ các thông tin trong bài viết của chúng tôi. Tìm hiểu về Quy trình biên tập để hiểu rõ hơn cách chúng tôi đảm bảo nội dung luôn chính xác, minh bạch và tin cậy.
- Chủ biên Nhan Trừng Sơn. Dị vật đường thở, sách Tai Mũi Họng tập 2.
- Belleza WG, Kalman S. Otolaryngological emergencies in the outpatients setting. Med Clin Nth Am 2006;90(2): 329-53.
- Nelson textbook of Pediatric Elsevier 18th Ed, 2007.