Những điều cần biết về vôi răng
Nội dung bài viết
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng nghe đến vôi răng (hay cao răng). Nhưng liệu bạn có biết nó ở đâu trong miệng và trông như thế nào không? Vôi răng là một thành phần khoáng hóa, bám trên bề mặt răng ở gần viền nướu. Nó chính là tác nhân góp phần gây ra những bệnh lý răng miệng cho chúng ta. Các Hiệp hội sức khỏe cũng như nha sĩ vẫn khuyên chúng ta phải định kỳ làm sạch vôi răng 6 tháng một lần. Tại sao lại như vậy? Hãy cùng Bác sĩ Trương Mỹ Linh tìm hiểu bản chất của vôi răng, cách hình thành và cũng như phòng ngừa nó nhé!
Vôi răng (cao răng) là gì?
Về bản chất, vôi răng được khoáng hóa từ mảng bám. Mặt ngoài được bao phủ bởi một lớp mảng bám không khoáng hóa. Nó bám rất chặt và được bởi đắp liên tục theo thời gian.
Vôi răng được bao phủ lỏng lẻo bởi: bựa răng, vi khuẩn đi động, tế bào biểu mô tróc vẩy và tế bào máu. Trong một vài trường hợp đặc biệt, cao răng được khoáng hóa không từ mảng bám vi khuẩn, mà từ màng tế bào hữu cơ tự do trong màng bám, và/hoặc tế bào bắt nguồn từ thức ăn. Hầu hết trên lâm sàng là kết quả của sự lắng đọng canxi và phosphate của mảng bám vi khuẩn.
Xoang miệng là nơi có nhiều cơ quan có khoáng hóa bất thường như: răng, tủy răng và những tuyến nước bọt. Chất lắng đọng hình thành trên răng, răng giả và những khí cụ khác trong miệng. Khi chất lắng đọng ở sát hay tiếp xúc với nướu và mô nâng đỡ sẽ gây bệnh nha chu.
Xem thêm: Làm thế nào để ngăn ngừa mảng bám và vôi răng?
Phân loại vôi răng
Vôi răng trên nướu
Nó là chất lắng đọng, được khoáng hóa thành lập trên bề mặt thân răng lâm sàng; phía trên đường viền nướu. Loại này khi mới thành lập thường có màu vàng trắng. Sau đó sậm màu theo tu do tiếp xúc với thức ăn, thuốc lá.
Nước bọt là nguồn cung cấp muối khoáng chủ yếu. Vôi răng trên nướu thành lập nhiều nhất ở mặt trong răng trước dưới, đối diện với lỗ đổ của tuyến nước bọt dưới hàm. Kế đến ở mặt ngoài của răng cối trên, đối diện với lỗ đổ của tuyến nước bọt mang tai.
Tuy nhiên, ở người có xu hướng lắng đọng nhiều, thì những bề mặt khác cũng có nhiều cao răng. Vệ sinh răng miệng kém, không ăn nhai và răng mọc sai vị trí làm gia tăng tỉ lệ và quy mô lắng đọng vôi.
Vôi răng dưới nướu
Đây là một thuật ngữ dùng miêu tả chất lắng đọng bị khoáng hóa, thành lập trên bề mặt chân răng, dưới đường viền nướu và kéo dài vào túi nha chu. Cũng như vôi răng trên nướu, vôi răng dưới nướu do mảng bám khoáng hóa tạo thành. Bên ngoài bao phủ bởi một lớp mảng bám không khoáng hóa; với sự bám dính lỏng lẻo của những vi khuẩn di động và dịch viêm.
Vôi răng dưới nướu thường có màu từ nâu sậm đến xanh đen và cứng hơn phần vôi trên nướu. Thật ra, vôi răng dưới nướu không thành lập bởi sự kéo dài trực tiếp từ vôi răng trên nướu, mà là từ sự khoáng hóa của mảng bám dưới nướu. Mảng bám này là sự kết hợp, hoặc kéo dài của mảng bám trên nướu.
Mảng bám trên và dưới nướu là nguyên nhân gây viêm ở nướu và mô nâng đỡ.
Viêm phát sinh dịch (dịch viêm và dịch ngoại bào của nướu). Đó là nguồn muối khoáng cho sự thành lập vôi dưới nướu. Vì vậy, nước bọt không liên hệ đến việc thành lập vôi dưới nướu. Sự phân bố vôi dưới nướu cũng không liên quan với vôi trên nướu.
Vôi răng dưới nướu có thể được tìm thấy ở bất kỳ bề mặt chân răng nào có túi nha chu. Về mặt hình thái học, vôi dưới nướu có hình dạng rất đa dạng.
Thông thường nhất là sự thành lập dạng vòng (ringlike) hay dạng gờ (ledgelike) cứng, và có ngạnh, hay lắng đọng thành cục, có thể thấy rõ ràng trên phim X quang. Một số ít hơn thường thấy là: dạng ngón tay (finger like), dạng cây dương xỉ (fernlike), nhỏ, bề mặt nhẵn láng, và có màu đen tùy theo cá nhân hoặc loại vôi.
Cấu trúc vôi răng
Sự kết hợp các nghiên cứu mô học và mô hóa học trên kính hiển vi điện tử cho thấy: cấu trúc chi tiết của vôi trưởng thành và sự bám dính của chúng trên bề mặt răng. Những tinh thể khoáng hóa lắng đọng trên một khuôn hữu cơ bao gồm: những vi sinh vật thoái hóa (thường là những xoắn khuẩn, bao quanh nhân là các sợi nhỏ hoặc những chất hữu cơ.
Vôi răng có cấu tạo phân tầng
Có thể nhận biết được điều này khi xem xét cấu trúc và mô hóa học. Biểu hiện là những vạch lớn (tương đương với lớp mảng bám phủ bên ngoài) có hướng song song mặt răng; thường hướng ngang ở vôi trên nướu và dọc ở vôi dưới nướu. Sự phân tầng này chứng tỏ: sự phát triển của vôi răng là do sự đắp lên từng lớp một của lớp mảng bám bị khoáng hóa mới.
Một số dạng tinh thể khác nhau được tìm thấy ở giữa và trong lớp vôi răng. Từ những tinh thể hình tháp nhỏ, được nhận diện bởi sự nhiễu xạ điện từ như hydroxyapatite; đến những tinh thể dạng ruy-băng (ribbon-like) dài của garanti phosphate được định hướng thành những bó hoặc hình hoa thị.
Cấu trúc vôi trên nướu và dưới nướu
Vôi trên nướu mới lắng đọng, có sự tập hợp những tinh thể kết tinh rộng lớn của Brushite. Vôi dưới nướu có thành phần khuôn nhiều hơn vôi trên nướu.Chúng thường thấy ở những vùng có chất không khoáng hóa với các mức độ khác nhau.
Vôi răng trên và dưới nướu được bao phủ bởi lớp mảng bám không khoáng hóa. Mảng bám phủ lên vôi trên nướu chủ yếu chứa xoắn khuẩn; hướng vuông góc với phần khoáng hóa bên dưới. Vôi dưới nướu được bao phủ bởi: cầu khuẩn, trực khuẩn, xoắn khuẩn và không có một định hướng riêng biệt.
Xem thêm: Tủy răng: Mô đặc biệt của cấu trúc răng.
Bựa răng
Được hình thành bởi : các mảnh vụn thức ăn còn sót lại, tế bào biểu mô và những tế bào bắt nguồn từ máu; bao phủ mặt ngoài của vôi răng (bị loại bỏ dễ dàng) cũng đóng góp một phần nhỏ vào cấu trúc của vôi trưởng thành.
Cách thức bám dính
Do vôi răng về cơ bản là mảng bám khoáng hóa. Phương cách bám dính vào mặt răng của hai loại vôi răng là như nhau. Điều này thấy rất rõ trên bề mặt men; nơi mảng bám bám dính rất chặt vào bề mặt răng và tạo điều kiện cho các lớp mảng bám tiếp theo bám vào, phát triển và khoáng hóa.
Mảng bám cũng góp phần để vôi răng dưới nướu neo chặt vào bề mặt xê- măng. Tuy nhiên, người ta thấy rằng: nếu không có mảng bám, các chất lắng đọng bám dính do các vi sinh vật bám vào những chỗ lồi lõm ở bề mặt xê-măng; cũng như những khoảng trống nơi bám của những sợi Sharpey; những vùng khiếm khuyết; hay vùng sang thương sâu răng.
Nghiên cứu trên kính hiển vi điện tử cho thấy: sự bám dính gia tăng khi xê-mãng bị khiếm khuyết và có sự liên kết giữa các tinh thể của vôi răng và tinh thể răng. Chính vì cơ chế bám dính này nên vôi răng dưới nướu rất khó loại trừ.
Thành phần vôi răng
Chất vô cơ
Vôi răng trưởng thành là một chất lắng đọng được khoáng hóa cao, với một thành phần vô cơ tương tự như của xương, ngà và xê-măng. Ngoài khoáng chất và phospho, cao răng còn chứa: carbonate, natri, magnet, kali và một ít thành phần khác như fluor, kẽm và strontium.
Thông thường, vôi răng dưới nướu chứa đựng nồng độ khoáng chất, magnet, fluor cao hơn vôi trên nướu; phản ánh nồng độ cao hơn của những ion này ở dịch ngoại bào của nướu so với nước bọt.
Cao răng trưởng thành (hơn 6 tháng tuổi) dạng tinh thể chủ yếu là: hydroxyapatite (Ca10[PO4]6(OH)2, và ít hơn là octacalcium-phosphate (OCP) Ca8H2(PO4)6.5H2O, whitlokite với thành phần chính là magnet trong Ca3(PO4)2 và brushite (Ca[HPO4].2H2O).
Cao răng mới thành lập (trên 3 tháng tuổi) hầu hết tinh thể là Brushite. Những nghiên cứu về sự phát triển vôi răng chỉ ra rằng Brushite xuất hiện trước tiên. Kế đó là octacalcium-phosphate và whitlockite và hydroxyapatite.
Chất hữu cơ
Khuôn hữu cơ chiếm khoảng 15 – 20% trong lượng khô của vôi răng trên nướu trưởng thành. Hơn một nửa của khuôn bao gồm: protein của vi khuẩn và protein trong nước bọt. Trong vôi răng đã trưởng thành chúng kết hợp với nhau rất chật chẽ. Carbohydrate được chuyển hóa từ: proteoglycan của vi khuẩn, polymer ngoại bào (như glucan) do vi khuẩn sản xuất, phần còn lại là từ glycoprotein của nước bọt và glycolipid từ vi khuẩn và nước bọt.
Người ta nhận thấy carbohydrate hiện diện rất đa dạng:
- Hexose (carbohydrate chính, chủ yếu là glucose voi một vài galactose).
- Methylpentose (rhamnose từ vi khuẩn và fucose từ nước bọt).
- Hexosamine và acid silic.
Một lượng nhỏ glycosaminoglycans (GAGS) cũng được tìm thấy trong vôi răng trên và dưới nướu; có lẽ được chuyển hóa từ sự phân hủy của mô nướu.
Những nghiên cứu gần đây trên lipid của vôi răng trên nướu đã chứng tỏ rằng: lipid trung tính chiếm nhiều nhất (62%) và có trọng lượng rất cao là những acid béo tự do, với lượng vừa phải của triglyceride, cholesterol và cholesterol ester. Glycolipid chiến 28% lipid của vôi răng và bao gồm những glycosphingolipid và sulfated glyceroglucolipid trung tính. Phospholipid chiếm 10% còn lại của lipid và chứa đựng hầu hết phosphati dylethanolamine và diphosphatidyl glycerol. Một chuỗi lipid cho thấy bản chất của cả hai sự đóng góp của nước bọt và vi khuẩn.
Sự tạo thành vôi răng
Quá trình hình thành
Giai đoạn sớm của sự thành lập vôi răng giống như sự tạo thành mảng bám. Sau khi lắng đọng cầu khuẩn Gr (+) nhanh chóng chiếm ngự.
Mảng bám dưới nướu cũng như trên nướu giống nhau về mặt mô học; mặc dù có sự khác biệt về thành phần hóa học của môi trường dịch.
Về mặt mô học, cầu khuẩn thống trị ở giai đoạn đầu. Khoảng 15 ngày sau, mảng bám bị xâm lấn bởi xoắn khuẩn. Cũng giống như của vôi răng trưởng thành mất khoáng, các vi sinh vật được bao phủ bởi chất hình sợi và/hoặc vô hình dạng.
Bằng việc sử dụng chất nhuộm màu đặc biệt, người ta nghiên cứu thời điểm bắt đầu và diễn tiến của sự khoáng hóa về mặt mô học. Sự khoáng hóa bắt đầu sớm xảy ra một vài ngày sau khi mảng bám kết dính. Sự lắng đọng của vi khuẩn thường xảy ra ở trung tâm của lớp mảng bám ngoài. Khoáng hóa tiếp diễn, và càng được củng cố khi cầu khuẩn tiếp tục xâm nhập mảng bám. Ít khi sự khoáng hóa xuất hiện ở vùng ngoại vi của mång bám. Khi sự khoáng hóa tiếp tục, cấu trúc phiến trở nên rõ ràng với sự xen kẽ của những dải màu đậm và xám.
Thời gian bắt đầu sự khoáng hóa xuất hiện khác nhau rất đáng kể tùy theo răng, tùy theo cá nhân.
Đối với vôi răng trên nướu, những bề mặt sát với lỗ đổ của tuyến nước bọt (mặt trong của răng cửa hàm dưới và mặt ngoài răng cối lớn hàm trên) xuất hiện khoáng hóa trước tiên.
Còn đối với vôi răng dưới nướu, sự bắt đầu khoáng hóa chậm hơn và dường như không liên hệ với sự khoáng hóa của vôi trên nướu ở cùng vị trí tương ứng.
Cơ chế của sự khoáng hóa xuất hiện như nhau ở cả hai vùng trên và dưới nướu. Mặc dù nguồn muối khoáng ở vùng dưới nướu là dịch ngoại bào nướu, chứ không phải là nước bọt.
Theo thời gian có thể là một tuần, hay vài tháng phần lớn mảng bám đã khoáng hóa. Luôn luôn có một lớp mảng bám không khoáng hóa bao phủ bên ngoài lớp đã khoáng hóa. Sự khoáng hóa thường xuất hiện đầu tiên bên trong khuôn gian vi khuẩn, sau đó xung quanh những khúm vi khuẩn, và cuối cùng là trong tế bào vi khuẩn.
Vai trò của vi khuẩn
Vai trò của vi khuẩn trong sự thành lớp vôi răng rất phức tạp. Mặc dù có sự tạo thành vôi răng từ những mầm vi sinh vật tự do, vôi răng bị nhiễm khuẩn nhiều hơn là những vi sinh vật khác.
Sự tồn tại của vi khuẩn không quan trọng trong quá trình khoáng hóa. Do đó những vi khuẩn không thể sinh tồn có thể hóa vôi một cách dễ dàng. Sự giảm hoạt động chuyển hóa và giảm sản xuất acid hữu cơ do thủy phân glucogen có thể là điều kiện tiên quyết trước khi vi khuẩn có thể khoáng hóa.
Yếu tố cơ địa
Trên lâm sàng, có những người vôi răng trên nướu thành lập nhanh và nhiều. Ngược lại có những người rất ít hay không có vôi răng sau nhiều tháng. Mảng bám liên quan đến vôi răng thành lập nhiều chứa canxi và phospho cao hơn mảng bám liên quan đến vôi răng thành lập ít. Sự khác biệt đó là do môi trường nước bọt; mặc dù có sự khác biệt ở dòng vi khuẩn, cũng như chế độ ăn uống.
Theo quan niệm hiện tại về sự khoáng hóa, khuynh hướng tạo vôi răng nhanh và nhiều có thể liên hệ đến sự gia tăng pH. Nồng độ khoáng không đồng nhất (nước bọt hoặc protein vi khuẩn hoặc lipid), hoặc liên hệ đến mức nồng độ thấp những chất ức chế.
Khả năng gây bệnh
Vôi răng trên nướu
Cho đến năm 1960, vẫn còn quan niệm cho rằng vôi răng là nhân tố chính gây bệnh nha chu. Nguyên nhân là do bề mặt ngoài xù xì của nó và về mặt cơ học vồi răng kích thích mô kế cận.
Quan điểm hiện nay được đưa ra bởi Schroeder (1969) cho rằng : sự tổn thương ban đầu ở nướu viền là do tác động của enzym và miễn dịch của vi sinh vật trong mảng bám. Quá trình này nặng hơn khi có kết hợp với vôi răng làm tăng sự lưu giữ và đẩy mạnh sự tích tụ mảng bám mới.
Tuy nhiên, không biết là vôi răng kết hợp với mảng bám có gia tăng hoạt động so với chỉ có mảng bám không?
Vôi răng xuất hiện sẽ gây ra tác hại sau:
- Giúp vi khuẩn mau chóng xâm nhập mô nâng đỡ.
- Gây trở ngại cho việc tự làm sạch tại chỗ.
- Bệnh nhân khó loại trừ mảng bám hơn chỉ có mảng bám không.
Vôi răng dưới nướu
Một số nghiên cứu cho rằng sự hiện diện cao răng dưới nướu góp phần vào quá trình tiến triển của bệnh nha chu. Những nghiên cứu về mặt lâm sàng chứng tỏ tầm quan trọng của việc thường xuyên loại bỏ cao răng và xử lý bề mặt gốc răng để dự phòng bệnh nha chu.
Nghiên cứu về mô học chứng tỏ rằng: vôi răng có tính xốp. Vì vậy, có vai trò như một kho dự trữ những chất kích thích.
Nghiên cứu thực nghiệm đã xác minh tính thấm của vôi răng dưới nướu đối với nội độc tố và sự hiện diện trong vôi răng mức độ cao những chất độc tố kích thích gây sự tiêu xương. Việc loại bỏ hoàn toàn tính xốp và vi khuẩn bám dính trên cao răng dưới nướu là giai đoạn then chốt trong điều trị nha chu.
Ngăn ngừa vôi răng
Sử dụng kem chải răng
Cho đến giữa những năm 50 thế kỷ XX, gần như tất cả những tác nhân kháng vôi răng tác động làm phân hủy hoặc thoái hóa vôi răng đã thành lập và trưởng thành. Trong đó hầu hết là chất căn bản làm mất khoáng hoặc tác nhân chelate hóa. Nhưng những chất này cũng phá hủy chất căn bản của răng, đặc biệt là xê-mãng. Một vài tác nhân nhắm vào cấu tạo khuôn của vôi răng, lớp chứa đựng cấu trúc khoáng hóa.
Một trong những tác nhân là sodium-ricinoleate đã chứng tỏ tác dụng giảm sự lắng đọng cao răng mới thành lập nhưng lại có vị rất khó chịu.
Mười năm sau, quan niệm đã thay đổi, từ việc biến đổi cao răng trưởng thành đến việc dự phòng sự gia tăng khoáng hóa mảng bám mới thành lập.
Tác nhân sử dụng bao gồm:
- Chất khử trùng và kháng sinh.
- Enzym và các enzym tổng hợp.
- Hợp chất tác động bề mặt.
- Nồng độ cao của urê.
Những năm 70 thế kỷ XX, việc phòng chống vôi răng chủ yếu là ức chế sự tăng trưởng của hydroxyapatite bởi pyrophosphate hoặc đồng phân của chúng.
Qua nhiều năm, các nghiên cứu đã chứng minh muối kẽm là một tác nhân chống mảng bám và cao răng. Trong một nghiên cứu gần đây với kem chải răng chứa 2% zinc chloride và 0,22% sodium fluoride, người ta nhận thấy đã có 47% giảm cao răng sau 6 tháng. Muối kẽm khác như zinc citrate cũng được nghiên cứu.
Dung dịch súc miệng
Nhiều loại dung dịch súc miệng dược để nghị có chất chống vôi răng đang sử dụng trên thị trường. Tuy nhiên, dung dịch súc miệng chứa chlorhexidine, tác nhân chống mảng bám hữu hiệu, có thế làm gia tăng lắng đọng vôi trên nướu.
Vệ sinh răng miệng
Nói chung, chải răng tốt có thể làm chậm tốc độ lắng đọng vôi răng. Nghiên cứu của Villa (1968) đã chứng minh rằng: chỉ cần có thói quen chải răng tốt có thể giảm sự thành lập mång bám gần 50% ở mặt lưỡi của răng trước hàm dưới.
Vôi răng góp phần vào tiến triển của bệnh nha chu. Việc thường xuyên loại bỏ hoàn toàn những chất lắng đọng trên bề mặt răng. Đặc biệt ở chân răng là cần thiết để ngăn chặn sự mất bám dính cũng như cung cấp môi trường lành mạnh cho mô nha chu. Loại bỏ hoàn toàn cao răng dưới nướu là yếu tố then chốt trong điều trị bệnh nha chu.
Nguồn tham khảo / Source
Trang tin y tế YouMed chỉ sử dụng các nguồn tham khảo có độ uy tín cao, các tổ chức y dược, học thuật chính thống, tài liệu từ các cơ quan chính phủ để hỗ trợ các thông tin trong bài viết của chúng tôi. Tìm hiểu về Quy trình biên tập để hiểu rõ hơn cách chúng tôi đảm bảo nội dung luôn chính xác, minh bạch và tin cậy.
- Bộ môn Nha chu, " Nha chu học","Vôi răng", Nhà xuất bản Y học, lần thứ nhất.